Căn cứ khoản 7 Điều 1 Nghị định 37/2022/NĐ-CP, người vi phạm quy định về nhập ngũ 2023 sẽ bị phạt hành chính như sau:
Căn cứ khoản 7 Điều 1 Nghị định 37/2022/NĐ-CP, người vi phạm quy định về nhập ngũ 2023 sẽ bị phạt hành chính như sau:
Theo quy định tại Điều 30 Luật Nghĩa vụ quân sự, độ tuổi gọi nhập ngũ là từ đủ 18 tuổi đến hết 25 tuổi. Riêng người học đại học, cao đẳng thì được tạm hoãn đến hết 27 tuổi nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Đủ sức khỏe để phục vụ tại ngũ: Phải có sức khỏe loại 1, 2, 3 theo quy định tại Thông tư liên tịch số 16 năm 2016.
- Có trình độ văn hóa từ lớp 8 trở lên hoặc từ lớp 7 trở lên với địa phương khó đảm bảo đủ chỉ tiêu giao quân…
Mặc dù nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ bắt buộc với công dân đủ điều kiện, tuy nhiên không phải ai cũng thuộc diện gọi nhập ngũ. Theo khoản 2 Điều 41 Luật Nghĩa vụ quân sự, các đối tượng sau đây được miễn gọi nhập ngũ:
- Con liệt sĩ, thương binh hạng một.
- Một anh/một em trai của liệt sĩ.
- Một con của thương binh hạng hai; bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
- Người làm công tác cơ yếu không phải là quân nhân, công an.
- Cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc tại vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn từ 24 tháng trở lên.
Ngoài ra, phụ lục 03 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch 16/2016 liệt kê các bệnh thuộc diện miễn đăng ký nghĩa vụ quân sự, không nhận vào quân thường trực gồm: Tâm thần, động kinh, bệnh Parkinson, điếc, di chứng do lao xương, khớp, phong, các bệnh lý ác tính, nhiễm HIV, khuyết tật mức độ nặng và đặc biệt nặng.
Do đó, nếu thuộc các trường hợp nêu trên thì công dân sẽ được miễn nhập ngũ.
Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên
Đến tháng 1-1943, sự thất bại của Quân đội Đức Quốc xã trong Trận Stalingrad là hiển nhiên. Cuộc đụng độ hoành tráng này đã thay đổi tiến trình của Thế chiến II kéo dài sáu tháng rưỡi. Liên Xô đã mất hơn 1 triệu binh sĩ, trong khi quân Đức tử vong là 950.000. Quân đoàn quân số 6 dưới sự chỉ huy của Trung tướng Friedrich Paulus cuối cùng đã bị bao vây và tiêu diệt.
Vào ngày thứ hai đến ngày cuối cùng của trận chiến, trùm Đức Quốc xã Adolf Hitler đã thăng cấp cho Paulus lên thống chế. Trong thông điệp cuối cùng của mình, Hitler đã đưa ra một mệnh lệnh rõ ràng: "Không một thống chế Đức nào từng bị bắt làm tù binh". Hitler mong Paulus tự sát khi bị Liên Xô bắt, nhưng Thống chế Paulus đã chọn cuộc sống và đầu hàng vào ngày 31-1-1943.
Nguyên soái Friedrich Paulus của Đức tại Trụ sở Hồng quân để thẩm vấn vào ngày 1-3-1943.
Đối với Moscow, sự đầu hàng của Thống chế Paulus rất quan trọng không chỉ về mặt uy tín. Sau cuộc xâm lược của Đức Quốc xã, chính phủ Liên Xô cho những người cộng sản Đức đến ẩn náu ở Liên Xô vào những năm 1930 và thành lập một tổ chức chống phát xít.
Sau thất bại tại Stalingrad, làm suy yếu niềm tin vào chiến thắng của Đức, khoảng 91.000 binh sĩ Wehrmacht đã bị bắt làm tù binh - đây một dịp khá tốt cho sự ra mắt của tổ chức chống phát xít. Wehrmacht là tên thống nhất của các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc xã từ năm 1935 đến năm 1945. Wehrmacht bao gồm Heer, Kriegsmarine và Luftwaffe. Đây là lượng chiến đấu chính của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, được đánh giá là lực lượng quân đội hùng mạnh nhất thế giới vào thời điểm này.
Vào tháng 7-1943, Liên Xô đã thành lập Ủy ban Quốc gia về một nước Đức tự do, và sau đó là Liên minh các quan chức Đức dưới sự giám sát của Tướng Walther Kurt von Seydlitz-Kurzbach bị bắt. Tuy nhiên, để tuyên truyền chống phát xít thành công, Kurzbach là không đủ. Chính phủ Liên Xô cần một người Đức rất nổi tiếng, một người như Thống chế Paulus.
Những người làm việc cùng thời với Thống chế Paulus cho biết, ông là một người lính có trách nhiệm và chu đáo, và một sĩ quan tham mưu nghiêm khắc. Cụ thể, ông đã tham gia phát triển Chiến dịch Barbarossa khét tiếng xâm lược Liên Xô.
Trong chiến tranh, trước khi đánh trận Stalingrad, Paulus làm trưởng phòng, thực tế làm công việc giấy tờ ở mặt trận nhà. "Lệnh bổ nhiệm Paulus làm Tư lệnh Quân đoàn 6 năm 1942 là một sai lầm chết người. Trước đó, ông ta thậm chí còn không chỉ huy một trung đoàn", Wieder viết.
Một điểm yếu khác của Paulus, theo Wieder, là niềm tin mù quáng của người này vào Hitler. Việc ông ta từ chối tự tử về cơ bản là trường hợp đầu tiên mà một sĩ quan từ chối tuân theo ý muốn của lãnh đạo. Tuy nhiên, ngay cả khi bị bắt làm tù binh, nguyên soái cho biết ông vẫn là một người xã hội chủ nghĩa.
Paulus ở trại tù binh Kriegsgefangenschaft.
Khi phát hiện ra việc thành lập Liên minh chống phát xít Đức, Paulus ban đầu "lên án mạnh mẽ liên minh và bằng văn bản từ bỏ tất cả tù binh Đức tham gia", nhà sử học Mikhail Burtsev nói.
Khi đó, Liên Xô sử dụng các đòn tâm lý nên Paulus đã thay đổi quan điểm của mình. Lúc đó người bạn của Paulus là Đại tướng Erwin von Wirzleben bị xử tử tại Đức, vì đã tham gia vào âm mưu chống Hitler tháng 7-1944, điều này cũng đóng một vai trò quan trọng làm cho nguyên soái Paulus chán Hitler. Từ đó Paulus bắt đầu thấy bản thân cũng chỉ là một quân bài của Hitler.
Vào ngày 8-8-1944, một năm rưỡi sau khi bị bắt làm tù binh, Paulus đã nói chuyện trên Đài phát thanh Đức và nói với những người lính Wehrmacht. "Đối với Đức, chiến tranh đã chấm dứt. Đức phải từ bỏ Hitler".
Đó là bài phát biểu chống Hitler đầu tiên nhưng không phải cuối cùng của Paulus. Ông gia nhập hàng ngũ của Liên minh các quan chức Đức và nhiều lần kêu gọi người dân Đức chống lại Hitler. Sau đó ông có những bài phát biểu chống phát xít mạnh mẽ.
Paulus làm việc trong Chính phủ Liên Xô, sau này ông là nhà tư vấn chính cho bộ phim của đạo diễn Vladimir Petrov về Trận chiến Stalingrad (1949). Sau khi Stalin qua đời, Paulus đã xin chuyển về quê hương Dresden ở Đông Đức và qua đời vì bệnh năm 1957.
Ông sinh ngày 23-9-1890 tại Breitenau, Hesse-Nassau, Đức, là con trai của một giáo viên. Thời thanh niên, Paulus đã xin vào làm học viên của Học viện Kaiserliche Marine (Hải quân Đế quốc Đức) nhưng không thành. Sau đó, ông nộp đơn xin học luật tại trường đại học Marburg. Nhưng một thời gian sau ông bỏ trường đại học. Tháng 2- 1910, Paulus gia nhập quân đội, phục vụ trong Trung đoàn bộ binh 111 với tư cách là một sĩ quan thực tập. Paulus lập gia đình với bà Elena Rosetti-Solescu vào ngày 4-7-1912.
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, trung đoàn của Paulus tham gia mũi tấn công vào nước Pháp. Một thời gian sau đó, Paulus là sĩ quan tham mưu phục vụ trong Quân đoàn Alpen (Alpenkorps) cho đến hết chiến tranh. Kết thúc Thế chiến I, Paulus mang quân hàm đại úy.
Sau Hiệp ước Versailles, Paulus được chỉ định vào chức vụ Đại đội trưởng trong Trung đoàn Bộ binh 13 ở Stuttgart (1921-1933), rồi chỉ huy trưởng tiểu đoàn môtô cơ giới (1934-1935), trước khi trở thành Tham mưu trưởng lực lượng Thiết giáp Panzer vào tháng 10-1935, Paulus được phân công nhiệm vụ tổ chức và xây dựng 3 sư đoàn Panzer.
Paulus đã nói chuyện trên Đài phát thanh Đức kêu gọi quân Đức từ bỏ Hitler.
Tháng 5-1939, Paulus được thăng Thiếu tướng và làm Tham mưu trưởng Tập đoàn quân X tấn công Ba Lan. Qua 2 chiến dịch, đơn vị được đổi thành Tập đoàn quân VI và chinh chiến qua các mặt trận Hà Lan và Bỉ.
Tháng 8-1940, Paulus được thăng Trung tướng và được cử làm Tham mưu phó Lục quân, trên cương vị này, Paulus tham mưu chiến dịch đánh chiếm Liên Xô. Tháng 1-1942, Paulus là Tư lệnh Tập đoàn quân VI trong mũi tiến công đến thành phố Stalingrad, nhưng đã bị quân Liên Xô đánh bại và kêu gọi Paulus đầu hàng.
Nếu Paulus đầu hàng, Liên Xô sẽ cung cấp thực phẩm cho binh sĩ của ông ta, người bị thương, bị bệnh và cóng lạnh sẽ được điều trị. Tất cả tù binh có thể giữ lại quân phù, huy chương và vật dụng cá nhân.
Paulus có 24 tiếng đồng hồ để trả lời. Paulus lập tức báo cho Hitler về nội dung tối hậu thư của Liên Xô và yêu cầu được tự do hành động. Hitler bác bỏ yêu cầu của ông. Buổi sáng ngày 10-1, 24 giờ sau khi thời hạn đầu hàng đã hết, quân Liên Xô mở đợt tấn công bằng trận địa pháo với 5.000 viên đạn đại bác.
Trận chiến diễn ra dữ dội trong vòng 6 ngày, quân Đức co cụm lại còn phân nửa diện tích với phòng tuyến dài 24 kilômét và rộng 15 kilômét. Đến ngày 24-1- 1943, quân Đức bị cắt ra làm hai khu vực và mất quyền kiểm soát đường băng khẩn cấp cuối cùng. Máy bay Đức không còn có thể hạ cánh để mang đến hàng hậu cần, nhất là thuốc men cho thương bệnh binh.
Một lần nữa, quân Liên Xô cho đối phương của họ một cơ hội để đầu hàng. Đại diện phía Liên Xô đến phòng tuyến của Đức với lời đề nghị đối với Paulus.
Một lần nữa, bị giằng co giữa nghĩa vụ phải tuân lệnh lãnh tụ điên rồ với trách nhiệm cứu vớt các binh sĩ còn lại để tránh cho họ bị tiêu diệt, Paulus kêu gọi đến Hitler: "Binh sĩ không còn đạn và thức ăn... Không còn có thể chỉ huy được hiệu quả... 18.000 thương binh không có đồ tiếp tế hoặc bông băng hoặc dược phẩm... Tiếp tục phòng thủ là vô nghĩa. Sụp đổ là không tránh khỏi. Đại đoàn yêu cầu được phép đầu hàng ngay để cứu vớt số binh sĩ còn lại".
Nhưng Hitler cấm đầu hàng và bắt Quân đoàn 6 phải giữ vững vị trí cho đến người cuối cùng và viên đạn cuối cùng. Ngày 30-1, Paulus gọi vô tuyến cho Hitler: "Sự sụp đổ cuối cùng sẽ đến trong vòng 24 tiếng đồng hồ".
Tin báo này khiến cho Bộ Tư lệnh tối cao của Hitler ban một cơn mưa thăng thưởng cho các sĩ quan, với hy vọng là những vinh dự như thế sẽ củng cố quyết tâm muốn hy sinh một cách vinh quang ngay tại mặt trận đẫm máu. Hitler phong cho Paulus, qua sóng vô tuyến, quân hàm Thống chế. Khoảng 117 sĩ quan khác cũng được thăng cấp. Đấy là một động thái trong trò ma quỷ: Hitler muốn Paulus chiến đấu cho đến chết.
Các cánh quân của Đức đã bị quân Liên Xô đánh tan. Vào lúc này, 91.000 chiến binh Đức - kể cả 24 tướng lĩnh đang đói khát, cóng lạnh, nhiều người mang thương tích, tất cả đều đau khổ, níu lấy tấm chăn lấm máu phủ lên người chống lại giá lạnh ở -24°C, đi khập khiễng trên lớp băng tuyết hướng đến các trại tù binh ở Siberi.
Trừ 20.000 quân Rumani và 29.000 thương binh đã được đưa về bằng máy bay, đấy là tất cả những gì còn lại của một Tập đoàn quân có quân số 285.000 người chỉ hai tháng trước. Trong số 91.000 người vào ngày mùa đông bị bắt làm tù binh.
Tại tổng hành dinh, nhà độc tài Quốc xã Hitler nhiếc móc các tướng lĩnh ở Stalingrad, và nói rằng "đáng lẽ họ phải củng cố hàng ngũ, phân tán mỏng, và tự bắn vào mình với viên đạn cuối cùng... Con người ấy (Paulus) đáng lẽ phải tự kết liễu đời mình như những tư lệnh thuở xưa gieo mình lên thanh gươm của họ khi thấy đã thất bại...".
Vào tháng 8-1944, Paulus lên tiếng trên đài phát thanh Moscow kêu gọi Quân đội Đức loại trừ Hitler.
Trận Stalingrad đánh dấu điểm ngoặt quan trọng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, Paulus đã ra làm nhân chứng trong Tòa án Nürnberg xử các lãnh tụ phát xít Đức.
Năm 1953, Paulus được thả. 2 năm sau đó, toàn bộ những tù binh Đức còn sống sót (chủ yếu là tù binh sau trận Stalingrad) cũng được phía Liên Xô cho hồi hương. Trong số 91.000 tù binh Đức, chỉ còn khoảng 6.000 người trở về nhà.
Paulus trở thành thanh tra cảnh sát tại Dresden, Cộng hòa dân chủ Đức đến lúc cuối đời. Ông mất ngày 1-2- 1957 vì một căn bệnh thần kinh.
Lễ tưởng niệm Binh đoàn Bất tử lần đầu được tổ chức tại thành phố Tomsk, Nga, năm 2012 đến nay đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới với hàng triệu người tham dự.
lễ tưởng niệm Binh đoàn Bất tử Israel Anh Pháp Đức lễ tưởng niệm Binh đoàn Bất tử Ngày Chiến thắng chiến thắng phát xít Hồng quân Liên Xô Liên Xô Nga Đức Thế chiến 2
Tháng 10-1941, Liên Xô đứng trước tình thế nguy kịch. Trong những trận quyết đấu gần thành phố Vyazma cách thủ đô Moskva 200 km, Hồng quân Liên Xô đã tổn thất lên đến 1 triệu người thương vong và bị bắt làm tù binh. Đường tiến vào Moskva lúc này rộng mở đối với quân phát-xít Đức.
Lúc bấy giờ, các sư đoàn tinh nhuệ từ Siberia, Ural và Viễn Đông vẫn chưa kịp đến để bảo vệ thủ đô, Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô đang phải kìm chân kẻ địch bằng tất cả lực lượng hiện có. Tuy nhiên, quân Đức vẫn liên tục tiến lên và ngày 2-12-1941, các đơn vị thuộc Sư đoàn xe tăng số 2 của chúng đã chiếm làng Krasnaya Polyanka cách Điện Kremlin chỉ 30 km.
Bộ chỉ huy của Đức Quốc xã tin rằng, sự thất bại của Hồng quân Liên Xô là không tránh khỏi. Hy vọng vào đợt tấn công quyết định cuối cùng, chúng không thèm để ý rằng, sau những đòn phản công liên tục của Liên Xô, quân Đức đã bị kiệt sức và quá căng thẳng, còn các sư đoàn xe tăng và cơ giới thì rất vất vả để vượt qua những bãi mìn dày đặc trên đường tiến đánh Moskva. Ngoài ra, lúc đó bắt đầu xuất hiện những vấn đề về tiếp tế và nạn dịch khiến ngựa chết hàng loạt do thiếu thức ăn và mùa đông khắc nghiệt.
Ngày 5-12, điều hoàn toàn bất ngờ xảy ra với quân địch, khi Mặt trận phía Tây của Nguyên soái Georgy Zhukov và Mặt trân Tây-Nam của Nguyên soái Konstantin Timoshenko chuyển sang phản công quy mô lớn. Bị giáng đòn mạnh, quân Đức đang bị kiệt sức bắt đầu nhanh chóng bỏ chạy khỏi Moskva, thậm chí một số nơi sự rút lui này biến thành cuộc tháo chạy trong hoảng loạn. Đến đầu tháng 1-1942, quân phát-xít mới ổn định được mặt trận.
“Cuộc tấn công vào Moskva đã thất bại. Toàn bộ những tổn thất và nỗ lực của quân chúng ta là vô ích”, tướng Đức Quốc xã Heinz Guderian viết trong cuốn “Hồi ký người lính” của mình. Chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” của quân phát-xít hoàn toàn phá sản. Quân Đức bị đánh bật cách Moskva 100-250 km không còn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với thủ đô của Liên Xô nữa.
Sau khi đánh bại quân đội Liên Xô ở Kharkov vào tháng 5-1942, quân Đức có cơ hội tấn công quy mô lớn theo hướng những mỏ dầu ở Kavkaz và hướng Stalingrad – trung tâm công nghiệp lớn của Liên Xô và nút giao thông quan trọng trên dòng Volga. Việc mất Stalingrad có thể trở thành thảm họa thực sự đối với Hồng quân Liên Xô.
Những đợt ném bom quy mô lớn và những cuộc giao tranh ác liệt trên đường phố đã phá hủy gần như hoàn toàn thành phố. Chống trả quân Đức trong tuyệt vọng, các đơn vị của Tập đoàn quân số 62 buộc phải rút về sông Volga, nơi đang cố thủ đến cùng trên những mảnh đất nhỏ thuộc khu vực nhà máy “Krasny Oktyabr” và “Barrikady”.
Ngày 19-11-1942, chờ cho đến khi Tập đoàn quân số 6 của Đức mắc kẹt lại trong thành phố, quân đội Liên Xô bắt đầu tấn công quy mô lớn vào các cánh của địch được bảo vệ kém. Chọc thủng hàng phòng ngự của chúng, Hồng quân Liên Xô khép chặt vòng vây xung quanh cụm quân địch có 330 nghìn binh tại Stalingrad, đến đầu tháng 2-1943 thì bị tiêu diệt hoàn toàn. Trong cuộc chiến thuộc hàng đẫm máu nhất lịch sử thế giới này, hai bên chịu thương vong tổng cộng lên đến 2 triệu người. Thất bại trong trận Stalingrad trở thành cú sốc thực sự đối với Đức Quốc xã và những kẻ đồng minh của chúng.
Mùa hè năm 1943, quân Đức chuẩn bị tấn công quy mô lớn vào trung tâm mặt trận Xô-Đức ở khu vực Kursk. Sau khi đánh bại Hồng quân Liên Xô theo hướng này, quân phát-xít tính trở lại thế chủ động chiến lược bị đánh mất sau thảm họa ở Stalingrad.
Sự tính toán của Đức về một cuộc tấn công bất ngờ là không phù hợp. Tình báo quân sự Liên Xô đã kịp thời phát hiện quân địch chuẩn bị chiến dịch “Thành trì” và thậm chí còn ấn định ngày mở cuộc tấn công là 5-7-1943.
Trong trận vòng cung Kursk, hai bên tham gia lên đến 2 triệu quân, 4.000 máy bay và 6.000 xe tăng. Đây là trận đánh có nhiều xe tăng nhất trong lịch sử.
Trên các hướng tấn công chính, quân phát-xít gặp phải sự chống trả kiên cường của binh sĩ Liên Xô, trong một tuần chúng chỉ tiến quân được 10 km. Đại đội trưởng Đại đội pháo cối Evgeny Okishev nhớ lại: “Trận đánh diễn ra cam go và căng thẳng đến nỗi bây giờ tôi vẫn nhớ như in cảm giác của mình rằng, đến cuối ngày tôi sẽ rất vui nếu mình bị thương hoặc bị giết... Bởi lúc đó thần kinh rất căng thẳng, trời thì nắng nóng, tiếp tế thì không có… Những công sự của chúng tôi trên điểm cao bị quân Đức khống chế bằng hỏa lực”.
Đứng vững trước đợt tấn công của quân phát-xít, Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công quy mô lớn, khiến cho kẻ địch đã bị suy yếu thất bại. Quân Đức Quốc xã cuối cùng mất thế chủ động trong cuộc chiến chống Liên Xô và bắt đầu tháo chạy về phía Tây.
Mùa hè năm 1944, Hồng quân Liên Xô sử dụng chính thứ vũ khí của quân Đức Quốc xã để chống lại chúng, đó là chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng”. Chiến lược này cho thấy, Hồng quân có khả năng trong thời gian ngắn phối hợp sử dụng hợp lý các binh đoàn xe tăng và lực lượng không quân để chọc thủng tuyến phòng ngự mạnh của kẻ địch, bao vây và nhanh chóng tiêu diệt các cụm quân phát-xít.
Cuộc tấn công quy mô lớn của Liên Xô bắt đầu ngày 23-6-1944 nhằm vào cụm các Tập đoàn quân “Trung tâm” tại Belarus là hoàn toàn bất ngờ với Bộ chỉ huy của Đức Quốc xã. Chúng nghĩ rằng, hướng ưu tiên trong đòn tấn công chính của Hồng quân vẫn sẽ là Ukraine, bởi qua đó có thể tiến đánh các mỏ dầu của Romania.
Chiến dịch tấn công “Bagration” kéo dài hơn hai tháng. Trong thời gian đó, quân đội Liên Xô tiến về phía Tây 600km, giải phóng lãnh thổ Belarus và một phần miền Đông Ba Lan, đồng thời mở đường tiến đến Warsaw (Varsava) và Đông Prussia. Cụm các Tập đoàn quân “Trung tâm” chịu tổn thất lên đến 500.000 quân thương vong và bị bắt làm tù binh, sau đó thực tế thì không còn tồn tại nữa.
Du kích quân Belarus đã đóng vai trò chính trong chiến dịch “Bagration”. Họ không những chỉ ra những vị trí yếu nhất trong hàng phòng thủ của kẻ địch, mà còn tấn công từ hậu phương, từ đó hỗ trợ đắc lực cho lực lượng tấn công vào những thời điểm mang tính quyết định. Nguyên soái Ivan Bagramyan trong cuốn hồi ký “Đường đến chiến thắng” viết: “Danh sách những đoàn xe lửa của quân phát-xít bị trật đường ray ngày càng tăng. Thực tế, tuyến giao thông bằng đường sắt của quân phát-xít đã bị tê liệt. Chúng không hề dễ dàng di chuyển trên đường bộ. Tại đây ngày cũng như đêm, không lúc nào du kích quân cho chúng được yên».
Ngày 17-7-1944, những hàng tù binh Đức bị bắt trong các trận đánh ở Belarus được dẫn giải trên đường phố Moskva. Tham gia “cuộc diễu hành của những kẻ bại trận” này tại thủ đô Liên Xô có tổng cộng 57 nghìn binh lính và sĩ quan Đức, trong đó có hàng chục tướng lĩnh.
Để tấn công thủ đô của Đức Quốc xã, Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô huy động lực lượng với quân số hơn 2 triệu người, nhằm đánh tan 800 nghìn quân phát-xít. Berlin đã được quân Đức biến thành pháo đài kiên cố, còn trên đường tiến vào thành phố được xây dựng các tuyến phòng ngự theo chiều sâu.
Ngày 20-4-1945, đội pháo binh tầm xa thuộc Quân đoàn bộ binh số 79 chúc mừng sinh nhật trùm phát-xít Hitler bằng đòn pháo kích đầu tiên vào Berlin. Năm ngày sau, thành phố đã bị Hồng quân Liên Xô khép vào vòng vây.
Trong vòng gần một tuần đã diễn ra các cuộc giao tranh ác liệt giành Berlin. Quân Đức biến từng con phố thành tuyến phòng thủ được dựng lên bằng chiến lũy, hầm trú ẩn, chiến hào và ụ súng máy. Quân đội Liên Xô càng tiến đến gần trung tâm, thì càng vấp phải sự chống trả ác liệt.
Ngày 30-4-1945, bắt đầu nổ ra trận đánh chiếm tòa nhà quốc hội Đức. Mặc dù sáng sớm ngày 1-5 trên nóc tòa nhà đã treo cờ đỏ chiến thắng, nhưng hai bên vẫn tiếp tục bắn nhau suốt ngày.
Sau khi trùm phát-xít Hitler tự tử, ngày 30-4-1945, ban lãnh đạo mới của Đức Quốc xã đã đề nghị Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô ký kết hiệp định ngừng bắn. Đáp lại, phía Liên Xô tuyên bố chỉ chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Phía Đức từ chối, giao tranh với thế lực mới lại bắt đầu, dù kéo dài không lâu. Ngày 2-5-1945, đội phòng vệ Berlin tuyên bố đầu hàng.
Nguyên soái Georgy Zhukov từng viết: “Các chiến sĩ của chúng ta trong các cuộc giao tranh đều tỏ ra rất hưng phấn, anh dũng và táo bạo. Sự trưởng thành và lớn mạnh của quân đội chúng ta trong những năm tháng chiến tranh đã được thể hiện hoàn toàn trong trận Berlin. Trong chiến dịch Berlin, những người lính, binh sĩ, sĩ quan và tướng lĩnh đã cho thấy họ là những người trưởng thành, cương quyết và cực kỳ gan dạ”.
Tổng cộng hơn 75.000 quân lính Liên Xô đã hy sinh trong trận chiến giành Berlin.